Thursday, July 25, 2013

Nice Cell Membrane photos

Check out these cell membrane images:


Herb of Grace,Waterhyssop, Bacopa monnieri ….Rau Đắng tại Texas …#4
cell membrane

Image by Vietnam Plants & The USA. plants

Taken on July 6, 2012 in Waco city, Texas state, Southern of America .


Tôi thích ăn rau Đắng sống chấm với nước cá kho hay thịt kho ( phải rửa kỷ, ngâm nước muối mặn , rồi rửa lại sạch trước khi ăn ), vị đăng đắng, giòn giòn của rau Đắng khó mà ngán, khó mà ngừng ăn, rất là kích thích khẩu vị. Tôi cũng hay trộn rau Đắng với các loại rau khác làm một dĩa sà lách với dầu giấm và cả trứng luộc cắt khoanh . Và ngon nhất có lẽ là rau Đắng ăn với bún mắm hay lẩu mắm ….Và món cháo cá Kèo ăn với rau Đắng thì không có ai mà không thèm …..


Ăn rau Đắng giúp giãm việc mất trí nhớ, khôi phục lại trí nhớ , xin đọc những thông tin bên dưới để biết rõ hơn về loại rau trời cho này ….


I love to eat raw Bacopa monnieri with some sauces of traditional Vietnamese

foods, or mix salad with some hard boiled eggs sliced , or dip them in Hot Pot or Fish porridge ….Very delicious …


….Brahmi decreases the rate of forgetting of newly acquired information. ( read the information below, please . )


Vietnamese named : rau Đắng, rau Đắng biển

Common names : Herb of Grace, Waterhyssop, Brahmi, Thyme-leafed gratiola, Water hyssop.

Scientist name : Bacopa monnieri (L.) Pennell

Synonyms : Bramia monnieri (L.) Drake , Lysimachia monnieri L.

Family : Scrophulariaceae – Figwort family

Kingdom : Plantae – Plants

Subkingdom : Tracheobionta – Vascular plants

Superdivision : Spermatophyta – Seed plants

Division : Magnoliophyta – Flowering plants

Class : Magnoliopsida – Dicotyledons

Subclass : Asteridae

Order : Scrophulariales

Genus : Bacopa Aubl. – waterhyssop

Species : Bacopa monnieri (L.) Pennell – herb of grace


**** www.tvvn.org/forum/showthread.php/34550-Rau-%C4%90%E1%BA%…


Dược Sĩ Trần Việt Hưng


Trong bài ‘Rau đắng đất’, chúng tôi đã liệt kê những cây rau được gọi là rau đắng tại Việt Nam. Cây rau đắng biển được xác định về phương diện thực vật là Bacopa monnieri. Tuy được gọi là rau đắng biển nhưng trên thực tế cây mọc tại những vùng đồng ruộng trong đất liền. Cây cũng được sử dụng làm thực phẩm và làm thuốc trong dân gian. Trong Y Dược học Ayurvedic (tại Ấn Độ, Pakistan…), cây Bacopa monniera là một trong những cây quan trọng, được ghi trong sách thuốc từ thế kỷ thứ 6, cây được xếp vào nhóm ‘medhya rasayana’ là nhóm thuốc được dùng để chữa trị nhiều chứng bệnh khác nhau kể cả những rối loạn về nhận thức, trí nhớ. Tại Ấn Độ, dịch chiết từ rau đắng biển, tiêu chuẩn hóa theo hàm lượng Bacosides được chính thức sử dụng trong nhiều thuốc trị bệnh kể cả các dạng si-rô cho trẻ em. Một số phương thuốc Ayurvedic như Bramighritam, Brahmirasa yanam có chứa rau đắng biển trong công thức.


Tên khoa học và các tên gọi khác:

Bacopa monnieri thuộc họ thực vật Scrophulariacea

Các tên khác: Coastal waterhyssop, Waterhyssop, Thyme-leaf gratiola, Brahmi (Ấn), Barambhi (Phạn), Phakmi (Thái).

Tại Ấn Độ: Tên Brahmi được gọi chung cho rau đắng biển và cả rau má. Tại Pakistan: Bamb, Ionika

Tại Việt Nam: cây còn được gọi là rau sam trắng, rau sam đắng, cây ruột gà. Sách Cây Thuốc và Động Vật Làm Thuốc Ở Việt Nam (Tài liệu chính thức của Viện Dược Liệu) chỉ gọi một tên duy nhất là Sam Trắng (Tập II, trang 668).


Đặc tính thực vật:

Cây thuộc loại cỏ lưu niên, thân bò mọc dài trên mặt đất, có thể dài 10-40 cm. Thân nhẵn, không lông màu xanh, tiết diện tròn, mọng nước, phân nhánh nhiều, đâm rễ ở các mấu. Lá đơn, mọc đối, dầy và không lông, mọng nước. Phiến lá hình muỗng hay trứng ngược tròn ở đầu, dài 2-3 cm rộng 0.5-0.7 cm, mặt trên xanh đậm, mặt dưới nhạt hơn. Hoa đơn độc, có 5 cánh, mọc ở nách lá, màu trắng hay tim nhạt. Cuống hoa dài 0.6-1.5 cm. Quả loại nang, hình trứng cỡ 5×3 mm trong chứa nhiều hạt nhỏ hình tam giác có cạnh cỡ 0.6 mm. Cây trổ hoa và cho quả trong các tháng 4-9.

Rau đắng biển phân bố rộng tại những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Á Châu từ Ấn Độ, Sri Lanka, Nam Trung Hoa, Taiwan sang Đông Nam Á. Cây cũng mọc tại Hawaii và Florida, được xếp vào loại cây hoang gây hại (weeds).

Cây mọc tại tại ruộng, trên đất có pha cát, ven ruộng, vùng bãi cỏ ẩm nơi thấp đến độ cao khoảng 1000m.

Tại Việt Nam, cây được gặp hầu như trên toàn quốc, tại các vùng đồng bằng và trung du Bắc và Nam VN.


Thành phần hóa học:


Các chất chính ly trích được gồm:

Saponins và Triterpenes: Quan trọng nhất là các chất damma ranes như bacosides và cáa bacosaponins (dựa trên các bacogenins A1-A5) bao gồm Bacosides A, B và C trong đó Bacoside A chiếm khoảng 2.5-3 %. (khi bị thủy giải bằng acid, bacoside A cho lactone ebelin và phân hủy thành jujubogenin. Bacopasaponin D (một pseudojujubogenin glucoside. Các bacopasaponins E và F (khác nhau ở phần jujubogenins). Hersaponin và Monnierin.

Ngoài ra còn có các triterpens betulic acid, bacosine, beta-sitosterol, stigmastanol và stigmasterol.

Các alkaloids như Brahmine và Herpestine trong những phần cây trên mặt đất.

Các flavonoids như glucuronyl-7-apigenin, glucuronyl-7-luteolin và luoteolin


Hoạt tính dược học:


Tác dụng trên khả năng nhận thức:

Cây rau đắng biển đã được nghiên cứu rất nhiều tại Viện Nghiên Cứu Trung Ương về Dược Phẩm , Lucknow Ấn Độ về tác động trên khả năng nhận thức (cognitive effects), trí nhớ (memory) nơi trẻ em và cả nơi người lớn.

Hoạt tính này đã được thử nghiệm và định giá nơi những người tình nguyện, khỏe mạnh qua những thử nghiệm (“mù đôi” [double-blind], có đối chứng, không lựa chọn trước người thử). Những người thử được cho dùng hoặc placebo, hoặc thuốc viên Bacopa chứa 300 mg trích tính (tiêu chuẩn hóa để chứa ít nhất 55% hỗn hợp Bacosides A và B): Kết quả cho thấy các hoạt động về nhận thức qua hình ảnh nhìn thấy được gia tăng nhanh hơn, khả năng học hỏi tăng nhanh hơn, trí nhớ cải thiện khi so sánh với placebo. Các kết quả đều rất tốt khi cho dùng thuốc liên tục trong 12 tuần (Psychopharmacology Số 156-2001) . Các triterpenoids saponins (bao gồm các Bacosides) tạo cho rau đắng biển khả năng cải thiện sự chuyển vận các luồng thần kinh. Các Bacosides giúp sửa chữa các hư hại của tế bào thần kinh bằng cách cải thiện các hoạt động của men kinase, tái tạo hoạt động tại các nơi hội tụ (synapse) của luồng thần kinh.

Một thử nghiệm (mù đôi, không lựa chọn trước đối tượng, có kiểm soát bằng placebo) trên 36 trẻ em được chẩn đoán là bị khiếm khuyết khả năng tập trung (Attention Deficit/ Hyperactive disorders) kéo dài trong 16 tuần. 19 em được uống một dịch chiết Bacopa (tiêu chuẩn hóa để chứa 20 % Bacosides) với liều 50 mg/ngày hai lần trong 12 tuần. 17 em được cho dùng placebo. Tuổi trung bình của các em trong 2 nhóm là 8.3 và 9.3. Nhóm dùng Bacopa được tiếp tục cho uống placebo 4 tuần kế tiếp (sau 12 tuần dùng thuốc). Tất cả 36 em đều được định giá qua các thử nghiệm căn bản về khả năng nhận thức ở các tuần thứ tư, thứ 8, thứ 12 và 16. Kết quả ghi nhận có những cải thiện rõ rệt nơi nhóm dùng Bacopa ở tuần thứ 12 trong các khả năng như lập lại những câu đã nghe, trí nhớ căn bản, và phối hợp được những điều được học (ghép hình từng đôi). Các cải thiện này vẫn được duy trì sau 4 tuần ngưng thuốc, chỉ dùng placebo trong 2 tuần kế tiếp.(Indian Journal of Psychiatry Số 42-2000. Phần phụ lục)

Khi thử trên chuột: hoạt tính trên nhận thức được ghi nhận qua các thử nghiệm về khả năng di chuyển qua các mê lộ (maze), khả năng chống được co giật khi bị kích xúc bằng điện. Khi cho dùng Bacopa chung với phenytoin trong 2 tuần liên tục, Bacopa giúp tránh được các sự kiện ‘hoạt động bất thường, bất khiển (impairment)’ gây ra do phenytoin. Trí nhớ và khả năng nhận thức được giữ nguyên và không bị ảnh hưởng về tác dụng chống co giật. (Journal of Ethnopharmacology Số 71-2000)

Trích tính Bacopa có thể đóng góp vào hoạt tính tái tạo khả năng nhận thức do tác động vào các yếu tố tăng trưởng. (Alternative Medicine Review Số 4-1999)


Hoạt tính trên khả năng học hỏi:

Các hoạt tính trên khả năng học hỏi đã được thử trên chuột qua nghiệm thử nghiệm, cho dùng một dung dịch chiết Bacopa bằng alcohol (liều cho uống 40 mg/kg trong 3-5 ngày liên tục). Khi cho thử bằng cách tạo sốc qua việc rọi ánh sáng gây lóa, rồi nhận xét phản ứng của chuột: kết quả ghi nhận nhóm dùng thuốc giữ được khả năng đã học từ trườc, đồng thời cải thiện được những gì đã ghi nhớ. (Journal of Ethnopharmacology Số 5-1982)

Thử nghiệm về giúp cải thiện khả năng học hỏi cũng được thực hiện trên 40 trẻ em (nhóm tuổi 6-8) tại vùng nông thôn Ấn Độ: cho dùng hoặc placebo, hoặc sirô Bacopa (350 mg trích tinh Bacopa/ 5ml) mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 5 ml trong 3 tháng cho thấy nhóm uống Bacopa có những khả năng tăng cao hơn về nhận thức các hình ảnh, nhận thức các cấu tạo, tổng hợp và cả khả năng lý luận (thời gian suy nghĩ nhanh hơn). (Indian Journal of Psychiatry Số 42-2000)


Hoạt tính an thần, giải trừ âu lo:

Chất trích từ Bacopa monniera (chứa 25 % Bacoside A) có hoạt tính giải trừ âu lo tương đương với benzodiazepin và lorazepam. Hoạt tính này tùy thuộc vào liều lượng sử dụng và đặc biệt là không gây phản ứng phụ như tạo quên lãng, nhầm lẫn như lorazepam mà còn giúp cải thiện trí nhớ. (Phytomedicine Số 5-1998). Một thử nghiệm lâm sàng nhỏ, kéo dài 1 tháng, nơi 35 bệnh nhân chẩn đoán bị bệnh thần kinh âu lo (anxiety neurosis) cho dùng sirô Brahmi, ngày 2 lần mỗi làn 15ml (tương đương với 12 gram trích tinh thô Bacopa) ghi nhận có những suy giảm rõ rệt về các triệu chứng âu lo, mức độ âu lo, mệt mỏi tinh thần và tăng được trí nhớ đồng thời giúp bệnh nhân lên cân, giảm thở gấp và giảm huyết áp.


Hoạt tính chống oxy-hóa:

Bacopa monniera có hoạt tính chống oxyhóa khi thử trên não của chuột bằng chuyển đổi các nồng độ của các men superoxide dismutase (SOD), catalase (CAT) và glutathione peroxidase (GPX). Hoạt tính chống oxyhóa có thể so sánh với deprenyl. Tác động của rau đắng biển diễn ra tại mọi khu vực của não bộ, trong khi đó tác động của deprenyl chỉ giới hạn tại khu vực vỏ não (cortex) nơi trán và tại khu vực striatum. Hoạt tính được xem là do kết quả của sự làm gia tăng hoạt động thu nhặt các gốc tự do. Dịch chiết bằng alcohol của cây có hoạt tính bảo vệ chống sự độc hại của sulfate sắt, và cumene-hydroperoxide gây ra khi gây nhiễm các cá thể thử nghiệm. Hoạt tính này được xem là tương đương vơi hoạt tính của tris, EDTA và Vitamin E. (Indian Journal of Experimental Biology Số 34-1996).


Hoạt tính chống co-giật:

Khi thử trên thú vật, dịch chiết bằng alcohol từ rau đắng biển gây đảo ngược hoạt động của kênh calcium. Các hoạt động co giật bất thường của cơ trơn gây ra bởi acetylcholine và histamine bị ức chế, cho thấy đây là một hoạt tính trực tiếp. Tác động của calcium chloride trên mạch máu và trên tiểu tràng đều bi giảm nhẹ khi cho dùng dịch chiết, cho thấy có sự can thiệp trực tiếp vào sự di chuyển của các ions calcium qua màng tế bào niêm mạc (Journal of Ethnopharmacology Số 66-2009). Bacopa đã được dùng trong y dược cổ truyền Ấn Độ để trị kinh phong (epilepsy). Nghiên cứu tại Ấn ghi nhận khi thử trên chuột nhà và chuột nhắt, chích qua màng phúc toan liều thật cao dịch chiết Bacopa (gần với liều gây tử vong LD50) trong 15 ngày cho thấy có hoạt tính chống kinh phong, tuy nhiên khi dùng liều thấp, hoạt tính không xẩy ra (Fitoterapia Số 63-1992)


Hoạt tính làm giãn nở cuống phổi:

Dịch chiết rau đắng biển bằng ethanol làm giãn nở cơ trơn nơi cuống phổi khi thử trên chuột bị gây tê, chông được tác động gây co cuống phởi bởi carbachol. Hoạt tính làm giảm áp lực trên hệ hô hấp tương tự như hoạt tính của salbutamol hơn là của isoprenaline (Phytomedicine Số 4-1997)

Hoạt tính bảo vệ cơ thể chống lại độc tính của một số hóa chất khác:

Các thử nghiệm ‘in vitro’ cho thấy dịch chiết từ ‘rau đắng biển’ có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại các phản ứng độc hại gây ra do một số thuốc và hóa chất. Trong một nghiên cứu dùng ruột (cô lập) của chuột bọ thử về hiệu ứng của Bacopa trên các phản ứng xẩy ra khi cai nghiện morphine ghi nhận khi thêm 1000 gammagram/mL dịch chiết Bacopa vào các mô (cô lập) trước khi chích morphine giúp giảm rõ rệt các phản ứng loại tạo cai nghiện do naloxone (Journal of Ethnopharmacoly Số 82-2002). Một nghiên cứu khác về khả năng bảo vệ gan chống lại tác động độc hại của morphine, khi thử trên chuột, ghi nhận dịch chiết Bacopa giúp làm giảm các hoạt động của lipid peroxidase, làm tăng nồng độ các men chống oxy-hóa và glutathione nơi tế bào gan của chuột (Phytotherapy Research Số 15-2002).


Tác dụng trị ung thư:

Nghiên cứu ‘in vitro’ cho thấy các phần ly trích (fractions) saponin của Bacopa có hoạt tính diệt bào khi thử trên trên tế bào ung thư loại Sarcoma 180. Hoạt tính này được cho là do Bacopa ức chế sự tái lập DNA nơi các tế bào ung thư


Hoạt tính trị các rối loạn về bao tử, ruột:

Bacopa đã được thử nghiệm ‘in vitro’ nơi người và thú vật để trị một số trường hợp rối loạn về tiêu hóa. Dựa trên hoạt tính chống co giật (xem phần trên), dịch chiết Bacopa đã được dùng để trị các trường hợp ruột co bóp gây ra hội chứng ruột khó chịu (loại Irritable bowel syndrome=IBS). Một thử nghiệm (mù đôi, không chọn trước đối tượng, có kiểm soát bằng placebo) trên 169 bệnh nhân IBS, so sánh hoạt tính của một đặc chế Ayurvedic (thành phần gồm Bacopa monniera và Aegle marmelos=Bàu nâu, Trái nấm) với các thuốc thông thường để trị IBS (clidinium bromide, chlordiazepoxide và psyllium). Các bệnh nhân được chia thành 5 nhóm dựa theo loại IBS, và cho dùng (không chọn trước) hoặc thuốc dược thảo, hoặc hóa dược hoặc placebo trong 6 tuần. Liều cho uống mỗi ngày 3 lần mỗi lần 5 gram thuốc, dược thảo hay placebo. Kết quả ghi nhận thuốc hóa dược hiệu nghiệm nhất, thuốc dược thảo có kết quả tốt vượt hơn placebo rõ rệt, tuy nhiên do thuốc dược thảo là một hỗn hợp nên không thể xác định được Bacopa có thật sự tác động khi dùng riêng rẽ không ?(Indian Journal of Medical Research Số 90-1989).

Một thử nghiệm khác ghi nhận dịch chiết Bacopa có hoạt tính diệt vi khuẩn Helicobacter pylori: Khi thử trên tế bào niêm mạc bao tử người có cấy vi khuẩn H. pylori: Bacopa tạo sự gia tăng của Prostaglandins E và Prostacycline (Prostaglandine E là một chất có hoạt tính bảo vệ niêm mạc của bao tử. (Phytomedicine Số 10-2003)

Bacopa có thể có khả năng ngừa và trị được ung loét bao tử: Thử nghiệm dùng dịch chiết Bacopa (tiêu chuẩn hóa theo Bacoside A), thử trên chuột với liều 20 mg/kg trong 10 ngày, cho thấy Bacopa chữa lành được các vết ung loét trong bao tử gây ra bởi acid acetic, đồng thời gia tăng khả năng tự vệ của niêm mạc, giảm được sự hư hại của tế bào. (Phytomedicine Số 8-2001)


Độc tính, phản ứng phụ và liều lượng:

Liều sử dụng trị liệu của Bacopa monniera không gây những phản ứng phụ độc hại và Bacopa đã được dùng trong Y Dược Ayurvedic từ hàng chục thế kỷ. Liều dược lý học của Bacosides cũng đã được nghiên cứu tại Ấn Độ, thử nghiệm trên những người tình nguyện (mù đôi, có đối chứng), dùng liên tục trong thời gian kéo dài 4 tuần. Liều cô đặc Bacosides cho dùng theo liều duy nhất 20-30 mg, uống một lần và liều uống phân chia làm nhiều lần 100-200 mg/ ngày không gây các phản ứng phụ (Indian Journal of Pharmacology Số 29-1997). Liều LD50 của dịch chiết Bacopa monniera, khi thử trên chuột được xác định là 5g/kg cho dịch chiết bằng nước và 17g/kg cho dịch chiết bằng alcohol. (Fitoterapia Số 63-1992)

Liều thông thường (dân gian) hàng ngày là từ 5-10 gram bột (không tiêu chuẩn hóa), 8-16 ml nước chiết.

Dịch chiết 1:2 Người lớn 5-12 ml/ ngày ; Trẻ em trên 6 tuổi 2.5-6 ml / ngày.

Trích tính, tiêu chuẩn hóa chứa 20 % Bacosides A và B, 200-400 mg/ngày chia thành nhiều lần.

Bacopa monniera có thể có những hoạt động tương-tác với một số dược phẩm như:

Các thuốc an thần, thuốc trị trầm cảm, thuốc trị thần kinh bất ổn như sertraline và các thuốc biến dưỡng do men Cytochrome P 450 , có thể gây tăng hoặc giảm hiệu ứng của các thuốc này (khi dùng chung).

Các thuốc về tuyến giáp trạng: Bacopa monniera có khả năng tăng tác động của các thuốc kích ứng hoạt động của tuyến giáp trạng, đồng thời ức chế các thuốc gây giảm hoạt động của tuyến giáp trạng. (Một nghiên cứu tại Ấn Độ ghi nhận khi dùng liều cao dịch chiết Bacopa=200 mg/kg có sự gia tăng đến 41 % của kích thích tố giáp trạng T4, kích thích tố T3 không bị ảnh hưởng. Nghiên cứu cho rằng Bacopa có thể kích thích trực tiếp sự bài tiết hay tổng hợp của T4 từ tế bào tuyến giáp và không ảnh hưởng trên sự chuyển đổi từ T4 thành T3. (Journal of Ethnopharmacology Số 81-2002)

Cần hỏi ý kiến của bác sĩ khi dùng chung với các thuốc chặn kênh Calcium (Calcium channel blockers.


Rau đắng biển trong Dược học cổ truyền:

Dược học cổ truyền Ấn Độ, Pakistan, Trung Hoa và Việt Nam dùng rau đắng biển để chữa trị nhiều loại bệnh khác nhau:

Việt Nam và Trung Hoa:

Rau đắng biển được xem là có vị đắng, tính mát có các tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu tiêu thũng có thể dùng khai vị, thông hơi, trấn an thần kinh. Dùng giã nát đắp ngoài da, hay lấy nước tắm trị ghẻ.

Ấn Độ:

Toàn cây được dùng làm thuốc bổ thần kinh, lợi tiểu, trị kinh phong, suyễn, thần kinh bất ổn, bổ tim, táo bón; ho ở trẻ em (dùng thân giã nát, đắp lên ngực), sưng trong bụng, lở loét ngoài da. Lá và cọng trị rắn cắn. Lá (nước cốt) dùng trị sưng phổi, phong thấp, sưng xương khớp.

Pakistan:

Bacopa monniera được dùng trị nóng sốt, an thần, bổ tim. Nước cốt từ lá được dùng trị sưng phổi, tiêu chảy nơi trẻ em (dùng mỗi lần một thìa càphê). Lá, rang vàng dùng trị khan tiếng. Lá khô dùng làm thuốc an thần. Dùng ngoài, đắp trị sưng, đau do phong thấp, sưng khớp xương.


Rau đắng biển trong ẩm thực:

Như đã trình bày trong bài ‘rau đắng đất’, đối với người dân quê tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, sự phân biệt các loại rau đắng không đặt thành vấn đề trong ẩm thực: Rau nào ‘đắng’ (đắng đất, đắng biển hay đắng càng tôm..) đều ‘mát’ đều có thể dùng để chế biến, thay thế cho nhau trong các món ăn thông thường như chiên, xào, nấu canh, trọn gỏi, cuốn bánh tráng, nhúng vào cháo nóng.

Tuy nhiên một số tác giả ‘rành’ hơn đã đưa ra những nhận xét ‘tinh tế’ hơn, phân biệt rau đắng đất và rau đắng biển:

Theo Bác Sĩ Hồ Đăng Khoa trong bài ‘Rau đắng biển: Thức ăn ngon và vị thuốc tốt’ thì ‘..Nói về ẩm thực Nam Bộ thì không thể không nhắc đến rau đắng biển. Loại rau này thật dễ tính như con người ở đây, không cần chăm bón vẫn có thể mọc ở những nơi nào có đất như bờ ruộng, bụi tre, mọc lẫn với cỏ… Rau đắng ngon nhất khi vừa sau mưa, vì lúc đó cọng rau sẽ mập tròn. Rau đắng có thể nhúng vào các loại lẩu, nấu các loại canh như canh cá đồng, canh cá lóc hoặc đơn giản hơn nhất là chấm với mắm kho quẹt..’

Tác giả Tạ Phong Tần trong bài ‘ Canh rau đắng đất’ phân biệt rõ ràng hơn hai loại rau; tuy đều đắng nhưng lại khác hẳn nhau. Theo tác giả thì: ..’Rau đắng biển cọng tròn, màu xanh lợt, vào mùa mưa nước ngập xâm xấp nó mọc thành từng đám lớn như đám rau muống, chỉ cầm cầm dao hay lưỡi liềm, sắn quần lội xuống nước cắt một loáng là có cả thúng đem ra chợ bán. Rau đắng biển, vị hơi đắng thôi, nếu ăn chưa quen thì không ăn được, còn ăn quen rồi thì khi nuốt miếng rau qua cổ họng, sẽ cảm thất vị ngòn ngọt thanh thanh như đường phèn đọng lại, ăn hoài không biết chán ..’ và ở quê tác giả (An Xuyên), ‘rau đắng biển thường luộc, xào mỡ, ăn sống với mắm kho và không nấu canh bao giờ (?) (Xin đọc nhận xét của tác giả về rau đắng đất).


Một số bài viết khác về ăn uống cũng bàn về rau đắng nhưng lại là rau đắng Polygonum aviculare (xin đọc bài viết về cây rau này).


Tài liệu sử dụng:

Major Herbs of Ayurveda (Elizabeth Williamson)

Indian Herbal Pharmacopoeia (1999)

Alternative Medicine Review Vol 9, No 1-2004: Bacopa monniera Monograph.

Scientific Basis for Ayurvedic Therapies (L. Mishra)

Clinical Applications of Ayurvedic and Chinese Herbs (Kerry Bone)

Medicinal Plants of India (S.K Jain & Robert DeFilipps)

Medicinal Plants of India and Pakistan (J.F Dastur)

Cây Thuốc và Động Vật Làm Thuốc Tại Việt Nam (Viện Dược Liệu) Tập 2.

________________________________________________________________________________


**** plants.usda.gov/java/profile?symbol=BAMO


**** essenherb.com/plant2.html

Part used: Leaves and stems.


This plant is also known as “Brahmi” or “Nira-brahmi”. The ancient ayurvedic texts recommend it to “rejuvenate the brain” and to improve the cognitive properties of the mind. The gurus of the religious schools from ancient India gave Brahmi to their disciples, so they could memorize hymns and vedic texts, and be more concentrated during meditation.


Active Ingredients

Marker constituent: Bacosides A3.

The components responsible for the pharmacological effects of Bacopa monnieri are: Alkaloids,saponins and sterols. In India, over 40 years ago, many of its active components were isolated; since then, other constituents have been identified, such as: Betulinic Acid, stigmasterol, beta-sitosterol, and other several bacosides and baco-saponines.


The components responsible for Bacopa monnieri‘s cognitive effects are bacosides A and B.


Other constituents:

Saponins, tetracyclic triterpenoids and bacosides A & B (crystalline mix of several saponins) are the main bioactive constituents of the plant. Of all of them, bacosides A are the most predominant. Other saponins include: Bacosides A1, bacosides A3, bacosaponins A, B, C, D, E & F. Other less predominant compounds are: Alkaloids, herpestinae and bramine; flavonoids, luteolin-7-glucoside, glucoronil-7-apigenin and glucoronil-7-luteolin, which are common phytosterols.


Effects


Cognitive

Triterpenoids, saponins and bacosides A&B are the main constituents of Bacopa monnieri responsible for enhancing nerve impulse transmission. These substances help to repair damaged neurons by powering Kinase activity and stimulating the neuronal synthesis, improving also the neurotransmission.


The main characteristic of Alzheimer’s disease is the loss of the cholinergic activity in the Hippocampus. Bacosides increase the antioxidant activity in the Hippocampus, in the Frontal Cortex and in the Striatum.


Several studies have shown that Bacopa monnieri’s extract modulates the expression of some enzymes that are involved in generating free radicals in the brain.


The potentialization of the cholinergic neurotransmission brings the improvement of the cognitive properties of the brain: memory, stability, volume and attention sharpness, amongst others.


Anti-ischemic

Bacopa monnieri exerts a powerful relaxing effect on the pulmonary arteries, Aorta and Trachea as well as the muscular mass; probably, as a result of the inhibition of the intracellular flow of Calcium through the cellular membrane.


Anti-inflammatory

It is presumed that Bacopa monnieri stabilizes the Mast Cells in vitro. It also has an anti-inflammatory effect because it inhibits the synthesis of Prostaglandins and stabilizes the lysosomal membrane.


Anti-convulsive

Although Bacopa monnieri has always been recommended to treat convulsions, some recent studies show that it only works when given in big dosages, for a long period of time. Yet, if Bacosides are used along with the anti-convulsive drugs, the effect of these drugs will be increased so that Polypragmasy is avoided; thus also reducing the amount of potentially toxic anti-convulsive drugs that will be applied.


Antiallergic

Bacosides stabilize the Heparin Granules Membranes of the Mast Cells, and the Basophil Granulocytes of the blood, inhibiting the atopic reactions. Bacopa monnieri‘s ability to stabilize those membranes is comparable to Sodium Cromoglicate.


Anticarcinogen

Some studies in vitro suggest an anticarcinogenic effect by Bacopa monnieri, which is probably due to its capability of inhibiting the replication of DNA in the malignant cell’s lines.


Bronchiolitic

Studies done on different mammals have demonstrated that Bacopa monnieri‘s extracts control the chemically induced bronchospam. This is, possibly, by blocking the calcium canals and stabilizing the Mast Cells Granules. These qualities justify Bacopa monnieri‘s use in the treatment of Bronchial Asthma.


Thyroid-stimulant

Some experiments found that Bacopa monnieri‘s extract increases by 41% the concentration of Tyroxine, while T3 levels do not change. This suggests that Bacosides work directly on the Thyroid Gland, stimulating the synthesis and/or release of T4, without altering the conversion of T4 into T3. These studies confirm that the plant has a stimulant effect on the Thyroid Gland. However, in these studies, dosages were very high; a regular dosage (200-400 mg daily) does not have a significant stimulating effect on the Thyroid Gland, it should be to take it into consideration for people with thyroidal pathologies.


Anti-stress

In the last decades, it has been largely reported that there is evidence of neurochemical molecular alterations in the Nerve Tissue (endocrine and immune) which is caused by stress. There has been an emphasis about the role that the axis “Hypothalamus-Hypophysis-Suprarenal Glands” has, in response, to psycho-traumatic (chronic and acute) situations. Although alterations caused by stress tend to limit themselves, after a long exposure, it will transgress the limit of each particular person’s resistance and could result in an irreversible pathological condition.


In case of severe stress, it has been proven that a pre-treatment with Bacopa monnieri reduced significantly the levels of ulcers and Creatine Kinase, as well as the Adrenal Glands’ weight.


Bacopa monnieri helps to attenuate the somatic consequences caused by stress. It also helps to cope with relevant psychophysical traumatic situations.


**** www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/12093601

Neuropsychopharmacology. 2002 Aug;27(2):279-81.

Chronic effects of Brahmi (Bacopa monnieri) on human memory.

Roodenrys S, Booth D, Bulzomi S, Phipps A, Micallef C, Smoker J.

Source

Department of Psychology, University of Wollongong, Woolongong, Australia. steven_roodenrys@uow.edu.au

Abstract

A study is reported on the effects of Brahmi (Bacopa monniera) on human memory. Seventy-six adults aged between 40 and 65 years took part in a double-blind randomized, placebo control study in which various memory functions were tested and levels of anxiety measured. There were three testing sessions: one prior to the trial, one after three months on the trial, and one six weeks after the completion of the trial. The results show a significant effect of the Brahmi on a test for the retention of new information. Follow-up tests showed that the rate of learning was unaffected, suggesting that Brahmi decreases the rate of forgetting of newly acquired information. Tasks assessing attention, verbal and visual short-term memory and the retrieval of pre-experimental knowledge were unaffected. Questionnaire measures of everyday memory function and anxiety levels were also unaffected.

PMID: 12093601 [PubMed - indexed for MEDLINE] Free ful


Herb of Grace,Waterhyssop, Bacopa monnieri ….Rau Đắng tại Texas …#6
cell membrane

Image by Vietnam Plants & The USA. plants

Taken on July 6, 2012 in Waco city, Texas state, Southern of America .


Tôi thích ăn rau Đắng sống chấm với nước cá kho hay thịt kho ( phải rửa kỷ, ngâm nước muối mặn , rồi rửa lại sạch trước khi ăn ), vị đăng đắng, giòn giòn của rau Đắng khó mà ngán, khó mà ngừng ăn, rất là kích thích khẩu vị. Tôi cũng hay trộn rau Đắng với các loại rau khác làm một dĩa sà lách với dầu giấm và cả trứng luộc cắt khoanh . Và ngon nhất có lẽ là rau Đắng ăn với bún mắm hay lẩu mắm ….Và món cháo cá Kèo ăn với rau Đắng thì không có ai mà không thèm …..


Ăn rau Đắng giúp giãm việc mất trí nhớ, khôi phục lại trí nhớ , xin đọc những thông tin bên dưới để biết rõ hơn về loại rau trời cho này ….


I love to eat raw Bacopa monnieri with some sauces of traditional Vietnamese

foods, or mix salad with some hard boiled eggs sliced , or dip them in Hot Pot or Fish porridge ….Very delicious …


….Brahmi decreases the rate of forgetting of newly acquired information. ( read the information below, please . )


Vietnamese named : rau Đắng, rau Đắng biển

Common names : Herb of Grace, Waterhyssop, Brahmi, Thyme-leafed gratiola, Water hyssop.

Scientist name : Bacopa monnieri (L.) Pennell

Synonyms : Bramia monnieri (L.) Drake , Lysimachia monnieri L.

Family : Scrophulariaceae – Figwort family

Kingdom : Plantae – Plants

Subkingdom : Tracheobionta – Vascular plants

Superdivision : Spermatophyta – Seed plants

Division : Magnoliophyta – Flowering plants

Class : Magnoliopsida – Dicotyledons

Subclass : Asteridae

Order : Scrophulariales

Genus : Bacopa Aubl. – waterhyssop

Species : Bacopa monnieri (L.) Pennell – herb of grace


**** www.tvvn.org/forum/showthread.php/34550-Rau-%C4%90%E1%BA%…


Dược Sĩ Trần Việt Hưng


Trong bài ‘Rau đắng đất’, chúng tôi đã liệt kê những cây rau được gọi là rau đắng tại Việt Nam. Cây rau đắng biển được xác định về phương diện thực vật là Bacopa monnieri. Tuy được gọi là rau đắng biển nhưng trên thực tế cây mọc tại những vùng đồng ruộng trong đất liền. Cây cũng được sử dụng làm thực phẩm và làm thuốc trong dân gian. Trong Y Dược học Ayurvedic (tại Ấn Độ, Pakistan…), cây Bacopa monniera là một trong những cây quan trọng, được ghi trong sách thuốc từ thế kỷ thứ 6, cây được xếp vào nhóm ‘medhya rasayana’ là nhóm thuốc được dùng để chữa trị nhiều chứng bệnh khác nhau kể cả những rối loạn về nhận thức, trí nhớ. Tại Ấn Độ, dịch chiết từ rau đắng biển, tiêu chuẩn hóa theo hàm lượng Bacosides được chính thức sử dụng trong nhiều thuốc trị bệnh kể cả các dạng si-rô cho trẻ em. Một số phương thuốc Ayurvedic như Bramighritam, Brahmirasa yanam có chứa rau đắng biển trong công thức.


Tên khoa học và các tên gọi khác:

Bacopa monnieri thuộc họ thực vật Scrophulariacea

Các tên khác: Coastal waterhyssop, Waterhyssop, Thyme-leaf gratiola, Brahmi (Ấn), Barambhi (Phạn), Phakmi (Thái).

Tại Ấn Độ: Tên Brahmi được gọi chung cho rau đắng biển và cả rau má. Tại Pakistan: Bamb, Ionika

Tại Việt Nam: cây còn được gọi là rau sam trắng, rau sam đắng, cây ruột gà. Sách Cây Thuốc và Động Vật Làm Thuốc Ở Việt Nam (Tài liệu chính thức của Viện Dược Liệu) chỉ gọi một tên duy nhất là Sam Trắng (Tập II, trang 668).


Đặc tính thực vật:

Cây thuộc loại cỏ lưu niên, thân bò mọc dài trên mặt đất, có thể dài 10-40 cm. Thân nhẵn, không lông màu xanh, tiết diện tròn, mọng nước, phân nhánh nhiều, đâm rễ ở các mấu. Lá đơn, mọc đối, dầy và không lông, mọng nước. Phiến lá hình muỗng hay trứng ngược tròn ở đầu, dài 2-3 cm rộng 0.5-0.7 cm, mặt trên xanh đậm, mặt dưới nhạt hơn. Hoa đơn độc, có 5 cánh, mọc ở nách lá, màu trắng hay tim nhạt. Cuống hoa dài 0.6-1.5 cm. Quả loại nang, hình trứng cỡ 5×3 mm trong chứa nhiều hạt nhỏ hình tam giác có cạnh cỡ 0.6 mm. Cây trổ hoa và cho quả trong các tháng 4-9.

Rau đắng biển phân bố rộng tại những vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Á Châu từ Ấn Độ, Sri Lanka, Nam Trung Hoa, Taiwan sang Đông Nam Á. Cây cũng mọc tại Hawaii và Florida, được xếp vào loại cây hoang gây hại (weeds).

Cây mọc tại tại ruộng, trên đất có pha cát, ven ruộng, vùng bãi cỏ ẩm nơi thấp đến độ cao khoảng 1000m.

Tại Việt Nam, cây được gặp hầu như trên toàn quốc, tại các vùng đồng bằng và trung du Bắc và Nam VN.


Thành phần hóa học:


Các chất chính ly trích được gồm:

Saponins và Triterpenes: Quan trọng nhất là các chất damma ranes như bacosides và cáa bacosaponins (dựa trên các bacogenins A1-A5) bao gồm Bacosides A, B và C trong đó Bacoside A chiếm khoảng 2.5-3 %. (khi bị thủy giải bằng acid, bacoside A cho lactone ebelin và phân hủy thành jujubogenin. Bacopasaponin D (một pseudojujubogenin glucoside. Các bacopasaponins E và F (khác nhau ở phần jujubogenins). Hersaponin và Monnierin.

Ngoài ra còn có các triterpens betulic acid, bacosine, beta-sitosterol, stigmastanol và stigmasterol.

Các alkaloids như Brahmine và Herpestine trong những phần cây trên mặt đất.

Các flavonoids như glucuronyl-7-apigenin, glucuronyl-7-luteolin và luoteolin


Hoạt tính dược học:


Tác dụng trên khả năng nhận thức:

Cây rau đắng biển đã được nghiên cứu rất nhiều tại Viện Nghiên Cứu Trung Ương về Dược Phẩm , Lucknow Ấn Độ về tác động trên khả năng nhận thức (cognitive effects), trí nhớ (memory) nơi trẻ em và cả nơi người lớn.

Hoạt tính này đã được thử nghiệm và định giá nơi những người tình nguyện, khỏe mạnh qua những thử nghiệm (“mù đôi” [double-blind], có đối chứng, không lựa chọn trước người thử). Những người thử được cho dùng hoặc placebo, hoặc thuốc viên Bacopa chứa 300 mg trích tính (tiêu chuẩn hóa để chứa ít nhất 55% hỗn hợp Bacosides A và B): Kết quả cho thấy các hoạt động về nhận thức qua hình ảnh nhìn thấy được gia tăng nhanh hơn, khả năng học hỏi tăng nhanh hơn, trí nhớ cải thiện khi so sánh với placebo. Các kết quả đều rất tốt khi cho dùng thuốc liên tục trong 12 tuần (Psychopharmacology Số 156-2001) . Các triterpenoids saponins (bao gồm các Bacosides) tạo cho rau đắng biển khả năng cải thiện sự chuyển vận các luồng thần kinh. Các Bacosides giúp sửa chữa các hư hại của tế bào thần kinh bằng cách cải thiện các hoạt động của men kinase, tái tạo hoạt động tại các nơi hội tụ (synapse) của luồng thần kinh.

Một thử nghiệm (mù đôi, không lựa chọn trước đối tượng, có kiểm soát bằng placebo) trên 36 trẻ em được chẩn đoán là bị khiếm khuyết khả năng tập trung (Attention Deficit/ Hyperactive disorders) kéo dài trong 16 tuần. 19 em được uống một dịch chiết Bacopa (tiêu chuẩn hóa để chứa 20 % Bacosides) với liều 50 mg/ngày hai lần trong 12 tuần. 17 em được cho dùng placebo. Tuổi trung bình của các em trong 2 nhóm là 8.3 và 9.3. Nhóm dùng Bacopa được tiếp tục cho uống placebo 4 tuần kế tiếp (sau 12 tuần dùng thuốc). Tất cả 36 em đều được định giá qua các thử nghiệm căn bản về khả năng nhận thức ở các tuần thứ tư, thứ 8, thứ 12 và 16. Kết quả ghi nhận có những cải thiện rõ rệt nơi nhóm dùng Bacopa ở tuần thứ 12 trong các khả năng như lập lại những câu đã nghe, trí nhớ căn bản, và phối hợp được những điều được học (ghép hình từng đôi). Các cải thiện này vẫn được duy trì sau 4 tuần ngưng thuốc, chỉ dùng placebo trong 2 tuần kế tiếp.(Indian Journal of Psychiatry Số 42-2000. Phần phụ lục)

Khi thử trên chuột: hoạt tính trên nhận thức được ghi nhận qua các thử nghiệm về khả năng di chuyển qua các mê lộ (maze), khả năng chống được co giật khi bị kích xúc bằng điện. Khi cho dùng Bacopa chung với phenytoin trong 2 tuần liên tục, Bacopa giúp tránh được các sự kiện ‘hoạt động bất thường, bất khiển (impairment)’ gây ra do phenytoin. Trí nhớ và khả năng nhận thức được giữ nguyên và không bị ảnh hưởng về tác dụng chống co giật. (Journal of Ethnopharmacology Số 71-2000)

Trích tính Bacopa có thể đóng góp vào hoạt tính tái tạo khả năng nhận thức do tác động vào các yếu tố tăng trưởng. (Alternative Medicine Review Số 4-1999)


Hoạt tính trên khả năng học hỏi:

Các hoạt tính trên khả năng học hỏi đã được thử trên chuột qua nghiệm thử nghiệm, cho dùng một dung dịch chiết Bacopa bằng alcohol (liều cho uống 40 mg/kg trong 3-5 ngày liên tục). Khi cho thử bằng cách tạo sốc qua việc rọi ánh sáng gây lóa, rồi nhận xét phản ứng của chuột: kết quả ghi nhận nhóm dùng thuốc giữ được khả năng đã học từ trườc, đồng thời cải thiện được những gì đã ghi nhớ. (Journal of Ethnopharmacology Số 5-1982)

Thử nghiệm về giúp cải thiện khả năng học hỏi cũng được thực hiện trên 40 trẻ em (nhóm tuổi 6-8) tại vùng nông thôn Ấn Độ: cho dùng hoặc placebo, hoặc sirô Bacopa (350 mg trích tinh Bacopa/ 5ml) mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 5 ml trong 3 tháng cho thấy nhóm uống Bacopa có những khả năng tăng cao hơn về nhận thức các hình ảnh, nhận thức các cấu tạo, tổng hợp và cả khả năng lý luận (thời gian suy nghĩ nhanh hơn). (Indian Journal of Psychiatry Số 42-2000)


Hoạt tính an thần, giải trừ âu lo:

Chất trích từ Bacopa monniera (chứa 25 % Bacoside A) có hoạt tính giải trừ âu lo tương đương với benzodiazepin và lorazepam. Hoạt tính này tùy thuộc vào liều lượng sử dụng và đặc biệt là không gây phản ứng phụ như tạo quên lãng, nhầm lẫn như lorazepam mà còn giúp cải thiện trí nhớ. (Phytomedicine Số 5-1998). Một thử nghiệm lâm sàng nhỏ, kéo dài 1 tháng, nơi 35 bệnh nhân chẩn đoán bị bệnh thần kinh âu lo (anxiety neurosis) cho dùng sirô Brahmi, ngày 2 lần mỗi làn 15ml (tương đương với 12 gram trích tinh thô Bacopa) ghi nhận có những suy giảm rõ rệt về các triệu chứng âu lo, mức độ âu lo, mệt mỏi tinh thần và tăng được trí nhớ đồng thời giúp bệnh nhân lên cân, giảm thở gấp và giảm huyết áp.


Hoạt tính chống oxy-hóa:

Bacopa monniera có hoạt tính chống oxyhóa khi thử trên não của chuột bằng chuyển đổi các nồng độ của các men superoxide dismutase (SOD), catalase (CAT) và glutathione peroxidase (GPX). Hoạt tính chống oxyhóa có thể so sánh với deprenyl. Tác động của rau đắng biển diễn ra tại mọi khu vực của não bộ, trong khi đó tác động của deprenyl chỉ giới hạn tại khu vực vỏ não (cortex) nơi trán và tại khu vực striatum. Hoạt tính được xem là do kết quả của sự làm gia tăng hoạt động thu nhặt các gốc tự do. Dịch chiết bằng alcohol của cây có hoạt tính bảo vệ chống sự độc hại của sulfate sắt, và cumene-hydroperoxide gây ra khi gây nhiễm các cá thể thử nghiệm. Hoạt tính này được xem là tương đương vơi hoạt tính của tris, EDTA và Vitamin E. (Indian Journal of Experimental Biology Số 34-1996).


Hoạt tính chống co-giật:

Khi thử trên thú vật, dịch chiết bằng alcohol từ rau đắng biển gây đảo ngược hoạt động của kênh calcium. Các hoạt động co giật bất thường của cơ trơn gây ra bởi acetylcholine và histamine bị ức chế, cho thấy đây là một hoạt tính trực tiếp. Tác động của calcium chloride trên mạch máu và trên tiểu tràng đều bi giảm nhẹ khi cho dùng dịch chiết, cho thấy có sự can thiệp trực tiếp vào sự di chuyển của các ions calcium qua màng tế bào niêm mạc (Journal of Ethnopharmacology Số 66-2009). Bacopa đã được dùng trong y dược cổ truyền Ấn Độ để trị kinh phong (epilepsy). Nghiên cứu tại Ấn ghi nhận khi thử trên chuột nhà và chuột nhắt, chích qua màng phúc toan liều thật cao dịch chiết Bacopa (gần với liều gây tử vong LD50) trong 15 ngày cho thấy có hoạt tính chống kinh phong, tuy nhiên khi dùng liều thấp, hoạt tính không xẩy ra (Fitoterapia Số 63-1992)


Hoạt tính làm giãn nở cuống phổi:

Dịch chiết rau đắng biển bằng ethanol làm giãn nở cơ trơn nơi cuống phổi khi thử trên chuột bị gây tê, chông được tác động gây co cuống phởi bởi carbachol. Hoạt tính làm giảm áp lực trên hệ hô hấp tương tự như hoạt tính của salbutamol hơn là của isoprenaline (Phytomedicine Số 4-1997)

Hoạt tính bảo vệ cơ thể chống lại độc tính của một số hóa chất khác:

Các thử nghiệm ‘in vitro’ cho thấy dịch chiết từ ‘rau đắng biển’ có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại các phản ứng độc hại gây ra do một số thuốc và hóa chất. Trong một nghiên cứu dùng ruột (cô lập) của chuột bọ thử về hiệu ứng của Bacopa trên các phản ứng xẩy ra khi cai nghiện morphine ghi nhận khi thêm 1000 gammagram/mL dịch chiết Bacopa vào các mô (cô lập) trước khi chích morphine giúp giảm rõ rệt các phản ứng loại tạo cai nghiện do naloxone (Journal of Ethnopharmacoly Số 82-2002). Một nghiên cứu khác về khả năng bảo vệ gan chống lại tác động độc hại của morphine, khi thử trên chuột, ghi nhận dịch chiết Bacopa giúp làm giảm các hoạt động của lipid peroxidase, làm tăng nồng độ các men chống oxy-hóa và glutathione nơi tế bào gan của chuột (Phytotherapy Research Số 15-2002).


Tác dụng trị ung thư:

Nghiên cứu ‘in vitro’ cho thấy các phần ly trích (fractions) saponin của Bacopa có hoạt tính diệt bào khi thử trên trên tế bào ung thư loại Sarcoma 180. Hoạt tính này được cho là do Bacopa ức chế sự tái lập DNA nơi các tế bào ung thư


Hoạt tính trị các rối loạn về bao tử, ruột:

Bacopa đã được thử nghiệm ‘in vitro’ nơi người và thú vật để trị một số trường hợp rối loạn về tiêu hóa. Dựa trên hoạt tính chống co giật (xem phần trên), dịch chiết Bacopa đã được dùng để trị các trường hợp ruột co bóp gây ra hội chứng ruột khó chịu (loại Irritable bowel syndrome=IBS). Một thử nghiệm (mù đôi, không chọn trước đối tượng, có kiểm soát bằng placebo) trên 169 bệnh nhân IBS, so sánh hoạt tính của một đặc chế Ayurvedic (thành phần gồm Bacopa monniera và Aegle marmelos=Bàu nâu, Trái nấm) với các thuốc thông thường để trị IBS (clidinium bromide, chlordiazepoxide và psyllium). Các bệnh nhân được chia thành 5 nhóm dựa theo loại IBS, và cho dùng (không chọn trước) hoặc thuốc dược thảo, hoặc hóa dược hoặc placebo trong 6 tuần. Liều cho uống mỗi ngày 3 lần mỗi lần 5 gram thuốc, dược thảo hay placebo. Kết quả ghi nhận thuốc hóa dược hiệu nghiệm nhất, thuốc dược thảo có kết quả tốt vượt hơn placebo rõ rệt, tuy nhiên do thuốc dược thảo là một hỗn hợp nên không thể xác định được Bacopa có thật sự tác động khi dùng riêng rẽ không ?(Indian Journal of Medical Research Số 90-1989).

Một thử nghiệm khác ghi nhận dịch chiết Bacopa có hoạt tính diệt vi khuẩn Helicobacter pylori: Khi thử trên tế bào niêm mạc bao tử người có cấy vi khuẩn H. pylori: Bacopa tạo sự gia tăng của Prostaglandins E và Prostacycline (Prostaglandine E là một chất có hoạt tính bảo vệ niêm mạc của bao tử. (Phytomedicine Số 10-2003)

Bacopa có thể có khả năng ngừa và trị được ung loét bao tử: Thử nghiệm dùng dịch chiết Bacopa (tiêu chuẩn hóa theo Bacoside A), thử trên chuột với liều 20 mg/kg trong 10 ngày, cho thấy Bacopa chữa lành được các vết ung loét trong bao tử gây ra bởi acid acetic, đồng thời gia tăng khả năng tự vệ của niêm mạc, giảm được sự hư hại của tế bào. (Phytomedicine Số 8-2001)


Độc tính, phản ứng phụ và liều lượng:

Liều sử dụng trị liệu của Bacopa monniera không gây những phản ứng phụ độc hại và Bacopa đã được dùng trong Y Dược Ayurvedic từ hàng chục thế kỷ. Liều dược lý học của Bacosides cũng đã được nghiên cứu tại Ấn Độ, thử nghiệm trên những người tình nguyện (mù đôi, có đối chứng), dùng liên tục trong thời gian kéo dài 4 tuần. Liều cô đặc Bacosides cho dùng theo liều duy nhất 20-30 mg, uống một lần và liều uống phân chia làm nhiều lần 100-200 mg/ ngày không gây các phản ứng phụ (Indian Journal of Pharmacology Số 29-1997). Liều LD50 của dịch chiết Bacopa monniera, khi thử trên chuột được xác định là 5g/kg cho dịch chiết bằng nước và 17g/kg cho dịch chiết bằng alcohol. (Fitoterapia Số 63-1992)

Liều thông thường (dân gian) hàng ngày là từ 5-10 gram bột (không tiêu chuẩn hóa), 8-16 ml nước chiết.

Dịch chiết 1:2 Người lớn 5-12 ml/ ngày ; Trẻ em trên 6 tuổi 2.5-6 ml / ngày.

Trích tính, tiêu chuẩn hóa chứa 20 % Bacosides A và B, 200-400 mg/ngày chia thành nhiều lần.

Bacopa monniera có thể có những hoạt động tương-tác với một số dược phẩm như:

Các thuốc an thần, thuốc trị trầm cảm, thuốc trị thần kinh bất ổn như sertraline và các thuốc biến dưỡng do men Cytochrome P 450 , có thể gây tăng hoặc giảm hiệu ứng của các thuốc này (khi dùng chung).

Các thuốc về tuyến giáp trạng: Bacopa monniera có khả năng tăng tác động của các thuốc kích ứng hoạt động của tuyến giáp trạng, đồng thời ức chế các thuốc gây giảm hoạt động của tuyến giáp trạng. (Một nghiên cứu tại Ấn Độ ghi nhận khi dùng liều cao dịch chiết Bacopa=200 mg/kg có sự gia tăng đến 41 % của kích thích tố giáp trạng T4, kích thích tố T3 không bị ảnh hưởng. Nghiên cứu cho rằng Bacopa có thể kích thích trực tiếp sự bài tiết hay tổng hợp của T4 từ tế bào tuyến giáp và không ảnh hưởng trên sự chuyển đổi từ T4 thành T3. (Journal of Ethnopharmacology Số 81-2002)

Cần hỏi ý kiến của bác sĩ khi dùng chung với các thuốc chặn kênh Calcium (Calcium channel blockers.


Rau đắng biển trong Dược học cổ truyền:

Dược học cổ truyền Ấn Độ, Pakistan, Trung Hoa và Việt Nam dùng rau đắng biển để chữa trị nhiều loại bệnh khác nhau:

Việt Nam và Trung Hoa:

Rau đắng biển được xem là có vị đắng, tính mát có các tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu tiêu thũng có thể dùng khai vị, thông hơi, trấn an thần kinh. Dùng giã nát đắp ngoài da, hay lấy nước tắm trị ghẻ.

Ấn Độ:

Toàn cây được dùng làm thuốc bổ thần kinh, lợi tiểu, trị kinh phong, suyễn, thần kinh bất ổn, bổ tim, táo bón; ho ở trẻ em (dùng thân giã nát, đắp lên ngực), sưng trong bụng, lở loét ngoài da. Lá và cọng trị rắn cắn. Lá (nước cốt) dùng trị sưng phổi, phong thấp, sưng xương khớp.

Pakistan:

Bacopa monniera được dùng trị nóng sốt, an thần, bổ tim. Nước cốt từ lá được dùng trị sưng phổi, tiêu chảy nơi trẻ em (dùng mỗi lần một thìa càphê). Lá, rang vàng dùng trị khan tiếng. Lá khô dùng làm thuốc an thần. Dùng ngoài, đắp trị sưng, đau do phong thấp, sưng khớp xương.


Rau đắng biển trong ẩm thực:

Như đã trình bày trong bài ‘rau đắng đất’, đối với người dân quê tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, sự phân biệt các loại rau đắng không đặt thành vấn đề trong ẩm thực: Rau nào ‘đắng’ (đắng đất, đắng biển hay đắng càng tôm..) đều ‘mát’ đều có thể dùng để chế biến, thay thế cho nhau trong các món ăn thông thường như chiên, xào, nấu canh, trọn gỏi, cuốn bánh tráng, nhúng vào cháo nóng.

Tuy nhiên một số tác giả ‘rành’ hơn đã đưa ra những nhận xét ‘tinh tế’ hơn, phân biệt rau đắng đất và rau đắng biển:

Theo Bác Sĩ Hồ Đăng Khoa trong bài ‘Rau đắng biển: Thức ăn ngon và vị thuốc tốt’ thì ‘..Nói về ẩm thực Nam Bộ thì không thể không nhắc đến rau đắng biển. Loại rau này thật dễ tính như con người ở đây, không cần chăm bón vẫn có thể mọc ở những nơi nào có đất như bờ ruộng, bụi tre, mọc lẫn với cỏ… Rau đắng ngon nhất khi vừa sau mưa, vì lúc đó cọng rau sẽ mập tròn. Rau đắng có thể nhúng vào các loại lẩu, nấu các loại canh như canh cá đồng, canh cá lóc hoặc đơn giản hơn nhất là chấm với mắm kho quẹt..’

Tác giả Tạ Phong Tần trong bài ‘ Canh rau đắng đất’ phân biệt rõ ràng hơn hai loại rau; tuy đều đắng nhưng lại khác hẳn nhau. Theo tác giả thì: ..’Rau đắng biển cọng tròn, màu xanh lợt, vào mùa mưa nước ngập xâm xấp nó mọc thành từng đám lớn như đám rau muống, chỉ cầm cầm dao hay lưỡi liềm, sắn quần lội xuống nước cắt một loáng là có cả thúng đem ra chợ bán. Rau đắng biển, vị hơi đắng thôi, nếu ăn chưa quen thì không ăn được, còn ăn quen rồi thì khi nuốt miếng rau qua cổ họng, sẽ cảm thất vị ngòn ngọt thanh thanh như đường phèn đọng lại, ăn hoài không biết chán ..’ và ở quê tác giả (An Xuyên), ‘rau đắng biển thường luộc, xào mỡ, ăn sống với mắm kho và không nấu canh bao giờ (?) (Xin đọc nhận xét của tác giả về rau đắng đất).


Một số bài viết khác về ăn uống cũng bàn về rau đắng nhưng lại là rau đắng Polygonum aviculare (xin đọc bài viết về cây rau này).


Tài liệu sử dụng:

Major Herbs of Ayurveda (Elizabeth Williamson)

Indian Herbal Pharmacopoeia (1999)

Alternative Medicine Review Vol 9, No 1-2004: Bacopa monniera Monograph.

Scientific Basis for Ayurvedic Therapies (L. Mishra)

Clinical Applications of Ayurvedic and Chinese Herbs (Kerry Bone)

Medicinal Plants of India (S.K Jain & Robert DeFilipps)

Medicinal Plants of India and Pakistan (J.F Dastur)

Cây Thuốc và Động Vật Làm Thuốc Tại Việt Nam (Viện Dược Liệu) Tập 2.

________________________________________________________________________________


**** plants.usda.gov/java/profile?symbol=BAMO


**** essenherb.com/plant2.html

Part used: Leaves and stems.


This plant is also known as “Brahmi” or “Nira-brahmi”. The ancient ayurvedic texts recommend it to “rejuvenate the brain” and to improve the cognitive properties of the mind. The gurus of the religious schools from ancient India gave Brahmi to their disciples, so they could memorize hymns and vedic texts, and be more concentrated during meditation.


Active Ingredients

Marker constituent: Bacosides A3.

The components responsible for the pharmacological effects of Bacopa monnieri are: Alkaloids,saponins and sterols. In India, over 40 years ago, many of its active components were isolated; since then, other constituents have been identified, such as: Betulinic Acid, stigmasterol, beta-sitosterol, and other several bacosides and baco-saponines.


The components responsible for Bacopa monnieri‘s cognitive effects are bacosides A and B.


Other constituents:

Saponins, tetracyclic triterpenoids and bacosides A & B (crystalline mix of several saponins) are the main bioactive constituents of the plant. Of all of them, bacosides A are the most predominant. Other saponins include: Bacosides A1, bacosides A3, bacosaponins A, B, C, D, E & F. Other less predominant compounds are: Alkaloids, herpestinae and bramine; flavonoids, luteolin-7-glucoside, glucoronil-7-apigenin and glucoronil-7-luteolin, which are common phytosterols.


Effects


Cognitive

Triterpenoids, saponins and bacosides A&B are the main constituents of Bacopa monnieri responsible for enhancing nerve impulse transmission. These substances help to repair damaged neurons by powering Kinase activity and stimulating the neuronal synthesis, improving also the neurotransmission.


The main characteristic of Alzheimer’s disease is the loss of the cholinergic activity in the Hippocampus. Bacosides increase the antioxidant activity in the Hippocampus, in the Frontal Cortex and in the Striatum.


Several studies have shown that Bacopa monnieri’s extract modulates the expression of some enzymes that are involved in generating free radicals in the brain.


The potentialization of the cholinergic neurotransmission brings the improvement of the cognitive properties of the brain: memory, stability, volume and attention sharpness, amongst others.


Anti-ischemic

Bacopa monnieri exerts a powerful relaxing effect on the pulmonary arteries, Aorta and Trachea as well as the muscular mass; probably, as a result of the inhibition of the intracellular flow of Calcium through the cellular membrane.


Anti-inflammatory

It is presumed that Bacopa monnieri stabilizes the Mast Cells in vitro. It also has an anti-inflammatory effect because it inhibits the synthesis of Prostaglandins and stabilizes the lysosomal membrane.


Anti-convulsive

Although Bacopa monnieri has always been recommended to treat convulsions, some recent studies show that it only works when given in big dosages, for a long period of time. Yet, if Bacosides are used along with the anti-convulsive drugs, the effect of these drugs will be increased so that Polypragmasy is avoided; thus also reducing the amount of potentially toxic anti-convulsive drugs that will be applied.


Antiallergic

Bacosides stabilize the Heparin Granules Membranes of the Mast Cells, and the Basophil Granulocytes of the blood, inhibiting the atopic reactions. Bacopa monnieri‘s ability to stabilize those membranes is comparable to Sodium Cromoglicate.


Anticarcinogen

Some studies in vitro suggest an anticarcinogenic effect by Bacopa monnieri, which is probably due to its capability of inhibiting the replication of DNA in the malignant cell’s lines.


Bronchiolitic

Studies done on different mammals have demonstrated that Bacopa monnieri‘s extracts control the chemically induced bronchospam. This is, possibly, by blocking the calcium canals and stabilizing the Mast Cells Granules. These qualities justify Bacopa monnieri‘s use in the treatment of Bronchial Asthma.


Thyroid-stimulant

Some experiments found that Bacopa monnieri‘s extract increases by 41% the concentration of Tyroxine, while T3 levels do not change. This suggests that Bacosides work directly on the Thyroid Gland, stimulating the synthesis and/or release of T4, without altering the conversion of T4 into T3. These studies confirm that the plant has a stimulant effect on the Thyroid Gland. However, in these studies, dosages were very high; a regular dosage (200-400 mg daily) does not have a significant stimulating effect on the Thyroid Gland, it should be to take it into consideration for people with thyroidal pathologies.


Anti-stress

In the last decades, it has been largely reported that there is evidence of neurochemical molecular alterations in the Nerve Tissue (endocrine and immune) which is caused by stress. There has been an emphasis about the role that the axis “Hypothalamus-Hypophysis-Suprarenal Glands” has, in response, to psycho-traumatic (chronic and acute) situations. Although alterations caused by stress tend to limit themselves, after a long exposure, it will transgress the limit of each particular person’s resistance and could result in an irreversible pathological condition.


In case of severe stress, it has been proven that a pre-treatment with Bacopa monnieri reduced significantly the levels of ulcers and Creatine Kinase, as well as the Adrenal Glands’ weight.


Bacopa monnieri helps to attenuate the somatic consequences caused by stress. It also helps to cope with relevant psychophysical traumatic situations.


**** www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/12093601

Neuropsychopharmacology. 2002 Aug;27(2):279-81.

Chronic effects of Brahmi (Bacopa monnieri) on human memory.

Roodenrys S, Booth D, Bulzomi S, Phipps A, Micallef C, Smoker J.

Source

Department of Psychology, University of Wollongong, Woolongong, Australia. steven_roodenrys@uow.edu.au

Abstract

A study is reported on the effects of Brahmi (Bacopa monniera) on human memory. Seventy-six adults aged between 40 and 65 years took part in a double-blind randomized, placebo control study in which various memory functions were tested and levels of anxiety measured. There were three testing sessions: one prior to the trial, one after three months on the trial, and one six weeks after the completion of the trial. The results show a significant effect of the Brahmi on a test for the retention of new information. Follow-up tests showed that the rate of learning was unaffected, suggesting that Brahmi decreases the rate of forgetting of newly acquired information. Tasks assessing attention, verbal and visual short-term memory and the retrieval of pre-experimental knowledge were unaffected. Questionnaire measures of everyday memory function and anxiety levels were also unaffected.

PMID: 12093601 [PubMed - indexed for MEDLINE] Free ful


Life Mounds by Charles Jencks
cell membrane

Image by josiequilts

Artist Statement


Eight landforms and a connecting causeway surround four lakes and a flat parterre for sculpture exhibits. The theme is the life of the cell, cells as the basic units of life, and the way one cell divides into two in stages called mitosis (presented in a red sandstone rill). Curving concrete seats have cell models surrounded by Liesegang rocks. Their red iron concentric circles bear an uncanny relationship to the many organelles inside the units of life. From above, the layout presents their early division into membranes and nuclei, a landform celebration of the cell as the basis of life.



Nice Cell Membrane photos

No comments:

Post a Comment